Chi bộ Phòng QLDA 2: Tổ chức sinh hoạt chuyên đề Quý III/2022 theo chuyên đề: “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường tất yếu đi tới phồn vinh, hạnh phúc”
Chi bộ Phòng QLDA 2: Tổ chức sinh hoạt chuyên đề Quý III/2022 theo chuyên đề: “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường tất yếu đi tới phồn vinh, hạnh phúc”
Tiếp tục quán triệt thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Kế hoạch số 12-KH/ĐU ngày 21/02/2022 của Đảng uỷ Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng các công trình giao thông tỉnh; chiều ngày 30/9, Chi bộ Phòng QLDA 2 tổ chức sinh hoạt chuyên đề Quý III/2022: “Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, con đường tất yếu đi tới phồn vinh, hạnh phúc”.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện ở ba nội dung lớn, đó là:
Thứ nhất, về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội: Theo Hồ Chí Minh độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Người, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được thực hiện tiến trình từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính”.
Thứ hai, những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam: Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Đảng phải xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Người xác định công – nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi công – nông – trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công – nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu những năm 20 và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Sau năm 1975, Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chỉ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV – Đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: “Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới.
Trong bối cảnh thế giới và khu vực còn diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đòi hỏi ngay trong nội bộ Đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn vững vàng lập trường, bản lĩnh, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mỗi cấp, ngành và địa phương; mọi lực lượng và toàn dân cần tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nêu cao cảnh giác, chủ động ứng phó có hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Con đường tất yếu đi tới phần vinh, hạnh phúc
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và trong đường lối của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó thể hiện sự lựa chọn sáng suốt của Đảng ta, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cả dân tộc Việt Nam, phù hợp với xu hướng của thời đại.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải giành được độc lập dân tộc và có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) diễn ra trong bối cảnh đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, với 2 chế độ khác nhau, vì vậy, Báo cáo chính trị xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Đại hội lần IV của Đảng (1976) chỉ rõ, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới – “giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.
Xuất phát từ thực tiễn, Đại hội lần thứ V của Đảng (1982) nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời, xác định hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ mật thiết với nhau.
Tuy nhiên, vì mắc phải những sai lầm do bệnh chủ quan duy ý chí, nóng vội trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện đã làm cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng về kinh tế – xã hội kéo dài. Để khắc phục những sai lầm đó, Đại hội lần VI (1986) của Đảng với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng ta khẳng định, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội tiếp tục khẳng định kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu lên 6 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng và 7 phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu lên những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách như thế nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là sự nhất quán giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Đảng ta về con đường của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đã khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Nhờ đường lối đúng đắn ấy, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần.
Đất nước Việt Nam chúng ta đã trải qua những năm tháng đau thương do chiến tranh gây ra. Giờ đây, hơn bao giờ hết, cần một môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, xây dựng một xã hội thân ái, đoàn kết, tiến bộ, nhân văn, phát triển bền vững, xây dựng hệ thống chính trị mà quyền lực thuộc về nhân dân, đời sống nhân dân không ngừng nâng lên… Tất cả những điều đó chỉ có được trong chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và từ thực tiễn thế giới cũng như thực tiễn Việt Nam đã chứng minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng của Việt Nam.
3. Liên hệ với trách nhiệm của lãnh đạo, quản lý và đảng viên hiện nay
Công cuộc đổi mới, phát triển đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác cán bộ của Đảng. Đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng không ngừng được kiện toàn, được đào tạo cơ bản và tương đối toàn diện về chính trị cũng như chuyên môn, nghiệp vụ. Chất lượng đội ngũ cán bộ từng bước được nâng cao, cơ bản bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới và phát triển. Đặc biệt là đã xuất hiện nhiều cán bộ trẻ tài năng, là nguồn kế cận thế hệ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp chiến lược trong tương lai với tư duy, tầm nhìn mới.
Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy, công tác cán bộ của Đảng cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất. Đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh. Năng lực chưa đồng đều; nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp. Trước những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và những mặt trái của quá trình toàn cầu hóa, nhiều cán bộ của Đảng đã bị thoái hóa, biến chất, tình trạng ngại phấn đấu, rèn luyện đã xuất hiện trong số cán bộ trẻ.
Trong những năm tới, để có bước đột phá trong công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, công tác cán bộ của Đảng phải triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó có việc tiếp tục quán triệt và vận dụng các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Để công cuộc đổi mới, phát triển đất nước đi đến thành công Đảng cần có những cán bộ tài năng. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải có trách nhiệm trong việc tìm kiếm, huy động người tài tham gia vào bộ máy hệ thống chính trị, bố trí và sử dụng một cách hiệu quả. Để làm được điều này, phải đề cao dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; phải tăng cường kỷ luật Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát những người làm công tác cán bộ. Công tác cán bộ phải được đặt dưới sự giám sát của các cấp chính quyền, và các tổ chức chính trị – xã hội, phải thường xuyên lắng nghe, tiếp thu ý kiến.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc: Kiểm tra, giám sát để xem xét công tác, học tập, giúp đỡ người tiến bộ ít, khen ngợi người tiến bộ nhiều, phát huy mặt tích cực, khắc phục, sửa chữa những sai lầm, thiếu sót. Việc kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, phải lấy hiệu quả công tác để đánh giá, phải đề cao dân chủ, lắng nghe ý kiến của các đoàn thể và nhân dân về cán bộ.
Chi bộ Phòng QLDA 2