CHUYÊN ĐỀ NĂM 2023: QUẢNG NGÃI ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Chuyên đề năm 2023
QUẢNG NGÃI ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
(Tài liệu học tập, sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị năm 2023)
LỜI GIỚI THIỆU
Thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kế hoạch số 159-KH/TU, ngày 19/12/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2023, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ngãi biên soạn tài liệu chuyên đề năm 2023 của tỉnh với chủ đề "Quảng Ngãi đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người để đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững".
Việc học tập, làm theo chuyên đề năm 2023 của tỉnh về xây dựng văn hóa, con người Quảng Ngãi là một bước cụ thể hóa thực hiện chuyên đề toàn khóa Đại hội XIII của Đảng về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đồng thời, góp phần thực hiện có hiệu quả Kết luận số 635-KL/TU ngày 01/11/2021 của Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ năm khóa XX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 19/10/2016 của Tỉnh ủy khóa XIX về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
Nội dung chuyên đề gồm 4 phần:
- Phần thứ nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, con người và xây dựng nền văn hóa mới, con người mới
- Phần thứ hai: Quan điểm của Đảng ta về xây dựng văn hóa, con người trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
- Phần thứ ba: Quảng Ngãi đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người để đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
- Phần thứ tư: Một số lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người.
Phần thứ nhất:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA, CON NGƯỜI VÀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI, CON NGƯỜI MỚI
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ YÊU CẦU XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
1.1. Định nghĩa về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận về định nghĩa văn hóa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[1].
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một nền văn hóa mới
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng nền văn hóa dân tộc với năm quan điểm lớn:
- Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
- Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
- Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
- Xây dựng chính trị: dân quyền.
- Xây dựng kinh tế”[2].
Điều này đã lý giải vì sao ngay sau khi đất nước giành được độc lập, Người đã bắt tay vào việc xây dựng, kiến tạo một nền văn hóa mới ở Việt Nam trên tất cả mọi lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức đến tâm lý con người và đã sớm đưa văn hóa vào chiến lược phát triển đất nước.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tính chất, chức năng của nền văn hóa mới
2.1. Về vị trí, vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội
Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới và kế thừa các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng và ý nghĩa lớn lao của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Người xem văn hóa là lĩnh vực tinh thần của xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, có mối quan hệ chặt chẽ với chính trị, kinh tế, xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa phải đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn thành tố chủ yếu của đời sống xã hội, có quan hệ biện chứng mật thiết với nhau. Trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, cả bốn thành tố này phải được coi trọng như nhau.
Trong quan hệ với chính trị, xã hội, Người cho rằng: Chính trị, xã hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hóa phát triển. Người nói: "Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy... Dưới chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được"[3]. Để văn hóa phát triển tự do, phải làm cách mạng chính trị trước. Giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển.
Trong quan hệ với kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hóa. Phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Người nói: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được. Do đó, kinh tế phải đi trước một bước, Người viết: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước"[4].
Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Người cho rằng văn hóa không được "thụ động" vào kinh tế, chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới phát triển văn hóa. Văn hóa có tính tích cực, chủ động, đóng vai trò to lớn như một động lực, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và chính trị. Người nói: "Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh"[5].
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Việc này không chỉ định hướng cho việc xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam mà còn định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Trong kháng chiến, Người nói "Văn hóa cũng là một mặt trận", "Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến"... nhờ vậy đã tạo nên một phong trào văn hóa, văn nghệ sôi động. Văn hóa không đứng ngoài mà ở trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Chính điều này đã đem lại sức mạnh to lớn giúp nhân dân Việt Nam, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị, điều đó có nghĩa là kinh tế và chính trị cũng phải có tính văn hóa. Phải đưa các giá trị văn hóa thấm sâu vào kinh tế và chính trị, làm cho văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
2.2. Về tính chất của nền văn hóa mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, để xây dựng một nền văn hóa mới, cần phải đảm bảo ba tính chất, đặc trưng cơ bản: tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng.
- Tính dân tộc của nền văn hóa được Chủ tịch Hồ Chí Minh biểu đạt bằng nhiều khái niệm như đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc..., nhằm nhấn mạnh đến chiều sâu bản chất đặc trưng của văn hóa dân tộc, giúp phân biệt với văn hóa của các dân tộc khác. Đối với dân tộc Việt Nam đó là những giá trị bền vững và những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, khát vọng độc lập; là ý chí tự lực, tự cường dân tộc; là lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình… Để được như vậy, Người cho rằng, phải "trau dồi cho văn hóa, văn nghệ có tinh thần thuần túy Việt Nam", phải "lột tả cho hết tinh thần dân tộc" không chỉ ở chiều sâu của nội dung văn hóa mà còn thể hiện đậm đà trong cách thức, phương thức thể hiện nội dung đó. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tính dân tộc của nền văn hóa không chỉ thể hiện ở chỗ biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mà còn phải phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới của đất nước.
- Tính khoa học của nền văn hóa mới thể hiện ở tính hiện đại, tiên tiến, thuận với trào lưu tiến hóa của thời đại. Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với khoa học, phản tiến bộ, phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít, phải biết gạn đục, khơi trong, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Người cho rằng: "Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam".
- Tính đại chúng được thể hiện ở chỗ nền văn hóa ấy phải phục vụ nhân dân và do nhân dân xây dựng nên. Người nói: "Văn hóa phục vụ ai? Cố nhiên, chúng ta phải nói là phục vụ công nông binh, tức là phục vụ đại đa số nhân dân"; "Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa"[6].
2.3. Về chức năng của nền văn hóa mới
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp. Tư tưởng và tình cảm là hai vấn đề chủ yếu nhất trong đời sống tinh thần của con người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chức năng cao quý nhất của văn hóa là phải bồi dưỡng, nêu cao tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ được những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, do đó, văn hóa phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả dân tộc.
Lý tưởng là điểm hội tụ những tư tưởng lớn của một Đảng, một dân tộc. Đối với nhân dân Việt Nam, đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một khi lý tưởng này phai nhạt thì không thể nói đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Chính vì vậy, theo Người chức năng hàng đầu của văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Phải làm thế nào cho ai cũng có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung và quên lợi ích riêng.
Tình cảm lớn, theo Bác đó là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người, yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư, tật xấu. Tình cảm đó được thể hiện trong nhiều mối quan hệ, với gia đình, quê hương, với bạn bè, anh em, đồng chí... Thông qua các mối quan hệ tốt đẹp, văn hóa phải góp phần xây đắp niềm tin cho con người, tin vào bản thân, tin vào lý tưởng, tin vào nhân dân và tin vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nâng cao dân trí phải bắt đầu từ chỗ biết đọc, biết viết để có thể hiểu biết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, thực tiễn Việt Nam và thế giới... Vấn đề nâng cao dân trí thực sự chỉ có thể thực hiện sau khi toàn bộ chính quyền đã về tay nhân dân.
Mục tiêu nâng cao dân trí của văn hóa trong từng giai đoạn cách mạng có thể có những điểm chung và riêng. Song tất cả đều hướng vào mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao dân trí là để nhân dân có thể tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, góp phần cùng Đảng "... biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc"[7].
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh; hướng con người đến chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân.
Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống, từ thói quen của cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Phẩm chất và phong cách thường có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mỗi người thường có nhiều phẩm chất, trong đó có phẩm chất chung và phẩm chất riêng, tùy theo nghề nghiệp, vị trí công tác. Các phẩm chất thường được thể hiện qua phong cách, lối sinh hoạt, làm việc, lối ứng xử trong đời sống... Căn cứ vào yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra những phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu dưỡng. Đối với cán bộ, đảng viên, Người đặc biệt quan tâm đến phẩm chất đạo đức, chính trị, để hoàn thành được những nhiệm vụ cách mạng, “biến lý tưởng thành hiện thực”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa giúp con người hình thành những phẩm chất, phong cách và lối sống tốt đẹp, lành mạnh, thông qua phân biệt cái đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng; cái tiến bộ với cái lạc hậu, bảo thủ. Từ đó, giúp con người phấn đấu làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, càng nhiều, cái lạc hậu, bảo thủ, ngày càng giảm, vươn tới chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân. Với ý nghĩa đó, Người đã chỉ rõ: Phải làm thế nào cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân. Văn hóa phải sửa đổi được nạn tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ. Văn hóa phải “soi đường cho quốc dân đi”.
Chính từ việc xác định ý nghĩa, tính chất, đặc trưng và chức năng của văn hóa, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần phải làm mọi cách để phát huy tối đa sức mạnh của văn hóa, làm cho các nhân tố văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, phương diện cả chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật và cả các mối quan hệ của con người, biến văn hóa trở thành một nguồn lực nội sinh quan trọng để phát triển.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội
3.1.Văn hóa chính trị
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa phải có định hướng tư tưởng chính trị, nhưng văn hóa tư tưởng lại soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Như vậy, văn hóa không những chỉ tác động trở lại kinh tế, chính trị, xã hội mà trong các hoạt động kinh tế, chính trị phải có trí tuệ, bản lĩnh văn hóa.
Người cho rằng, chính trị mà thiếu văn hóa, không gắn với những hoạt động đời thường của con người, không xuất phát từ tình yêu thương con người, không gắn với nhân dân thì đó là thứ chính trị tầm thường, thô thiển, coi nhẹ và làm mờ nhạt chính trị, tự thủ tiêu chính trị. Người nhìn thấy sức mạnh cách mạng từ lực lượng quần chúng được tập hợp, đoàn kết lại với mục tiêu nhân văn cao cả là độc lập và tự do, hạnh phúc, đó cũng chính là mục tiêu của văn hóa.
3.2. Văn hóa giáo dục
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng việc xây dựng một nền văn hóa giáo dục của nước Việt Nam mới đã được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến lược, cơ bản và lâu dài. Người tuyên bố: "Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập"[8].
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa giáo dục ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải tẩy sạch tàn dư của giáo dục nô dịch, đồng thời phải trang bị những kiến thức cần thiết cho việc xây dựng kinh tế, quản lý xã hội và hình thành con người Việt Nam mới. Người đã đưa ra một hệ thống quan điểm rất phong phú, hoàn chỉnh về giáo dục, định hướng cho nền giáo dục phát triển đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
3.3. Văn hóa văn nghệ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nền văn nghệ cách mạng ở Việt Nam mà còn là chiến sĩ tiên phong trong sáng tạo văn nghệ. Vì vậy, trong quá trình chỉ đạo xây dựng nền văn nghệ cách mạng, Ngươi đã đưa ra ba quan điểm chủ yếu:
Một là, văn hóa văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng. Người coi mặt trận văn hóa có tầm quan trọng như mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế. Trong mặt trận đó, người "nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí" đấu tranh. Vì vậy, Người yêu cầu "chiến sĩ nghệ thuật cần có lập trường vững, tư tưởng đúng… đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết"[9].
Hai là, văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống của nhân dân. Thực tiễn đời sống của nhân dân rất phong phú, là nguồn nhựa sống, là sinh khí và là chất liệu vô tận cho văn nghệ sáng tác. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các văn nghệ sĩ phải "thật hòa mình vào quần chúng", phải "từ trong quần chúng ra, trở về nơi quần chúng", phải "liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân", để hiểu thấu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân, học tập nhân dân và "miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn" thực tiễn đời sống của nhân dân.
Ba là, phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc. Mục tiêu của văn nghệ là phục vụ quần chúng. Do đó các tác phẩm văn nghệ phải đạt tới sự thống nhất hài hòa giữa nội dung và hình thức. Người nói: "Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích"[10]. Theo Người, một tác phẩm hay là phải kế thừa được những tinh hoa văn hóa dân tộc, mang được hơi thở của thời đại, vừa phản ánh chân thật những gì đã có trong đời sống, vừa phê phán cái dở, cái xấu, cái sai, hướng nhân dân đến cái chân, cái thiện, cái mỹ, vươn tới cái lý tưởng.
3.4. Văn hóa đời sống
Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới, được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra với ba nội dung: Đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới.
Đạo đức mới: Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị "mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính"[11]. Sau này, Người đã nhiều lần khẳng định: "Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[12], vì vậy phải “Nêu cao và thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính tức là nhen lửa cho đời sống mới"[13].
Lối sống mới: Là lối sống có lý tưởng, có đạo đức, là lối sống văn minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại. Để xây dựng lối sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải sửa đổi "cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại" và mỗi người phải khiêm tốn, giản dị, chừng mực, ngăn nắp, vệ sinh, yêu lao động, biết quý trọng thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền danh lợi. Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế nhị, giàu tình yêu thương, quý mến, với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc, với người thì độ lượng, khoan dung.
Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới là quá trình làm cho lối sống mới dần thành thói quen, thành phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, đời sống mới "Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm. Cái gì mới mà hay thì phải làm, phải bổ sung".
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ YÊU CẦU XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vai trò của con người
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề con người là vấn đề lớn, trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, đó là tư tưởng mà Người vận dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập và xây dựng đất nước.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất về trí lực, tâm lực, thể lực, vừa tồn tại với tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Người viết: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng bào cả nước; rộng hơn nữa là cả loài người”. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung chung, trừu tượng, mà nhìn con người có tính xã hội, là con người xã hội, thành viên của một cộng đồng với nhiều chiều quan hệ.
Con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận là con người lịch sử cụ thể, với tư cách là những cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc, với loài người trên toàn thế giới. Đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân, là những "người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Con người đó phải được giải phóng để đứng lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần; là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"[14]. Người luôn có niềm tin vững chắc với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của của nhân dân ta. Người viết: "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi"[15].
Mục tiêu của cách mạng là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Xét đến cùng, những mục tiêu này là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn diện của con người. Bác cũng nêu rõ con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, "nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Do vậy mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Vì vậy, "việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy ta phải hết sức tránh".
Con người là vốn quý nhất, là động lực, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh “mọi việc đều do người làm ra”; “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là những người sáng tạo chân chính ra lịch sử thông qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị, xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lòng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, quần chúng nhân dân là lực lượng quan trọng của mọi phong trào đấu tranh cách mạng. Họ có mặt ở khắp mọi nơi và nếu được dẫn dắt bởi một tổ chức chính trị có đường lối đúng đắn, khoa học sẽ trở thành một khối thống nhất, có sức mạnh vô địch; sẵn sàng chiến đấu vì mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng. Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ, bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam... Chính trị, văn hóa, tinh thần là nhân tố cơ bản trong động lực con người.
Với ý nghĩa con người là mục tiêu của sự phát triển và con người là động lực của sự phát triển thì con người mục tiêu và con người động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng. Phải kiên quyết khắc phục các phản động lực trong con người và tổ chức, đó là chủ nghĩa cá nhân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”[16]. Con người xã hội chủ nghĩa chính là chủ thể xây dựng chế độ xã hội mới, nền văn hóa mới.
Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người mới xã hội chủ nghĩa gồm hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau, đó là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống và hình thành những phẩm chất mới. Theo Người, phẩm chất mới của con người xã hội chủ nghĩa đó là tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức xã hội chủ nghĩa, phong cách xã hội chủ nghĩa, có trí tuệ, bản lĩnh để làm chủ bản thân, gia đình, xã hội
- Con người có tư tưởng xã hội chủ nghĩa là con người có lý tưởng sống cao đẹp, có tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”; có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa; dám nghĩ, dám làm, vươn lên hàng đầu để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; có tinh thần đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
- Con người có đạo đức xã hội chủ nghĩa là con người luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết và biết giải quyết đúng đắn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của giai cấp, dân tộc và của tập thể. Con người mới xã hội chủ nghĩa phải hội tụ bốn phẩm chất cơ bản: Trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình và có tinh thần quốc tế trong sáng, đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người.
- Con người có tác phong xã hội chủ nghĩa là con người lao động có kế hoạch, có biện pháp, có quyết tâm; lao động có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật; lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả; lao động quên mình, không sợ khó, sợ khổ, vì lợi ích của bản thân, của tập thể và của xã hội.
- Con người có trí tuệ, bản lĩnh để làm chủ bản thân, gia đình và xã hội là con người có trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ để nông dân, xã viên có năng lực làm chủ ruộng đồng, hợp tác xã; công nhân có năng lực làm chủ công trường, xí nghiệp; công dân có có năng lực tham gia làm chủ Nhà nước và xã hội.
Theo Bác, phải quan tâm xây dựng con người có phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, để lôi cuốn xã hội phát triển. Khi xã hội phát triển sẽ tạo ra con người mới phát triển cao hơn. Mỗi bước xây dựng con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định muốn có con người mới phải có chiến lược “Trồng người”. Đây là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến lược, phát triển kinh tế, xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục, đào tạo theo nghĩa hẹp. Người viết: “vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
“Trồng người” là công việc lâu dài, gian khổ. “Trồng người” phải được tiến hành thường xuyên trong suốt tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội và phải đạt được những kết quả cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Công việc “trồng người” phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực hiện chiến lược "trồng người" cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục, đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược lại, giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu đến thanh niên. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó "đức" là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm.
Theo Người, không phải chờ cho kinh tế, văn hóa phát triển cao rồi mới xây dựng con người xã hội chủ nghĩa; cũng không phải xây dựng xong những con người xã hội chủ nghĩa rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội. "Trồng người" là công việc "trăm năm", không thể nóng vội "một sớm một chiều”, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Đó là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội, kết hợp với sự nỗ lực cá nhân của mỗi con người.
Phần thứ hai:
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Dân tộc Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử, trải qua biết bao biến đổi, thăng trầm, nhân dân ta đã tích luỹ, tạo ra nhiều giá trị, bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, làm nên hồn cốt dân tộc. Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hoá trong sự phát triển của đất nước, của dân tộc, từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phát triển văn hoá dân tộc; năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã đề ra "Đề cương văn hoá Việt Nam", trong đó chỉ rõ "Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hoá)". Từ đó tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp nhân dân, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và phát huy vai trò của văn hoá, khơi dậy khát vọng của dân tộc để đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi đất nước được hòa bình thống nhất.
Sau hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Đảng đã xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là sức mạnh nội sinh quan trọng để phát triển đất nước. Nền văn hoá mà Việt Nam xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo; kế thừa những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá của thế giới, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Đồng thời, Đảng ta khẳng định con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước. Phát triển văn hoá, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới.
Nhìn lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hoá vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Các sản phẩm văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú, nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hoá trong chính trị, kinh tế thực sự được coi trọng và từng bước phát huy hiệu quả. Tư tưởng, đạo đức, lối sống và một số lĩnh vực then chốt của văn hóa đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách pháp luật về văn hóa tiếp tục được hoàn thiện, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá. Tổ chức tốt hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Việc xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội. Công tác đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", phong trào "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" được biểu dương, lan toả trong đời sống xã hội, đã củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển, lĩnh vực văn hóa còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Văn hoá chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ, tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững. Vai trò của văn hoá trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm. Phát triển các lĩnh vực văn hoá chưa đồng bộ, còn phiến diện, chưa đi vào chiều sâu, thực chất. Đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm nghề nghiệp, quy tắc ứng xử, văn minh công cộng chưa được xây dựng theo hướng văn hóa. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn. Nhiều di sản văn hoá quý báu của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một. Đầu tư cho văn hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Chưa có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc. Việc tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại còn hạn chế. Có hiện tượng văn hóa tầm thường, dễ dãi, mang tính thị trường, phản cảm và có biểu hiện “lệch chuẩn” trong hưởng thụ văn hóa…
Trên thực tế, khi các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nhất là lòng yêu nước, tinh thần tương thân, tương ái, sống có nghĩa, có tình được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ thì dù khó khăn đến đâu cả dân tộc lại kết thành một khối thống nhất về ý chí và hành động để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Vì vậy, các yếu tố văn hóa tiêu cực, lẫn tích cực thâm nhập vào nước ta là một tất yếu. Do đó, việc xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu cầu cần thiết, quan trọng, là "nền tảng tinh thần", "động lực phát triển" và "soi đường cho quốc dân đi" để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM
Từ ngày thành lập Đảng cho đến nay, Đảng ta ta luôn coi trọng vai trò của văn hoá và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng, phát triển văn hoá, con người trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần và tiến bộ xã hội, là động lực, nguồn lực nội sinh cho sự phát triển; con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển văn hóa; xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa hiện nay.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa đặc biệt của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”. "Tăng cường đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”, “Tập trung nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”… “Từng bước vươn lên khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là một sự kiện đặc biệt quan trọng, tiếp tục khẳng định, làm rõ quan điểm, đường lối nhất quán của Đảng về phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần khẳng định vai trò to lớn của văn hóa, “Văn hóa còn là dân tộc còn”. Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa của dân tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ 06 nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Hai là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia, dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hoá gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.
Ba là, phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá, đời sống văn hoá: Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hoá mới. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hoá, phản văn hoá; bảo vệ những giá trị chân, thiện, mỹ. Nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; xây dựng đời sống văn hoá vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền của đất nước.
Bốn là, phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hoá là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hoá, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hoá sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, bảo đảm sự công bằng. Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hoá.
Năm là, chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hoá, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hoá trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá.
Sáu là, xây dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hoá thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh.
Về những giải pháp trong thời gian tới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu:
1. Tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm bảo đảm sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong xây dựng, phát triển văn hóa từ Trung ương đến cơ sở để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
2. Cần quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc, các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá của thời đại. Phát triển "sức mạnh mềm" của văn hoá Việt Nam, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia.
3. Chú trọng xây dựng văn hoá ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội. Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng.
4. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "quét sạch chủ nghĩa cá nhân". Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
5. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá tương xứng với yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hoá Việt Nam trong giai đoạn mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: "Để làm trọn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hoà mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp". Tập trung nâng cao đời sống văn hoá ở cơ sở, chú trọng xây dựng và phát triển văn hoá đỉnh cao, phấn đấu có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam hiện nay.
6. Xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia.
Tóm lại, về quan điểm, chủ trương của Đảng yêu cầu phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ khái niệm văn hóa và vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự phát triển đất nước. Mỗi bước đi lên, phát triển của đất nước đều có dấu ấn và sự khai sáng của văn hóa. Yếu tố bản chất của văn hóa gắn với con người, phản ánh tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách, tâm hồn, cách ứng xử. Vì vậy, phải hết sức coi trọng xây dựng phát triển nền văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng để xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Phần thứ ba
TỈNH QUẢNG NGÃI ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
I. THỰC TRẠNG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI TRONG NHỮNG NĂM QUA
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 19/10/2016 của Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững (Nghị quyết số 03) và hơn một năm triển khai thực hiện Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, việc xây dựng, phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi đạt được nhiều kết quả tích cực.
Nhận thức, ý thức trách nhiệm của hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi có chuyển biến tốt. Việc xây dựng, phát triển văn hóa và con người ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau, đã cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nêu cao vai trò trách nhiệm, tích cực tham gia xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Đã coi trọng bảo vệ và phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống và tiếp thu, chọn lọc các giá trị văn hóa hiện đại để xây dựng con người Quảng Ngãi phát triển toàn diện. Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội thường xuyên được quan tâm bồi dưỡng; nếp sống văn hóa, văn minh,“mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội, có tinh thần sáng tạo, khát khao cống hiến vì cộng đồng, tinh thần tự trọng, tự chủ được đẩy mạnh, tuyên truyền, giáo dục và có chuyển biến tích cực.
Các cấp, các ngành và mỗi người dân luôn xác định gia đình là hạt nhân, tổ ấm, tế bào lành mạnh của xã hội, là nơi nuôi dưỡng, bồi đắp nhân cách của mỗi người, vì vậy việc xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh được chú trọng thực hiện. Thường xuyên phê phán cái xấu, sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức, lối sống; đẩy lùi lối sống vô cảm, không tuân thủ pháp luật trong một bộ phận dân cư.
Việc xây dựng đời sống văn hóa trong việc cưới, việc tang, lễ hội có chuyển biến tích cực. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh ngày càng đi vào thực chất. Đa số các thôn, tổ dân phố đều xây dựng hương ước, quy ước, quy định về thực hiện nếp sống văn minh. Truyền thống đoàn kết, gắn bó tình làng, nghĩa xóm, tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau được phát huy; các hủ tục, mê tín, dị đoan từng bước được đầy lùi.
Chú trọng đến việc giáo dục, rèn luyện, phát triển con người toàn diện cả về tri thức, lý tưởng sống, kỹ năng, ý thức trách nhiệm xã hội, hình thành rõ nét đức tính của con người Quảng Ngãi khoan dung, thân thiện, tự trọng, tự chủ, có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình; giàu lòng nhân ái, yêu lẽ phải, trung thực, thẳng thắn, hiếu học, cần cù, tiết kiệm, sáng tạo, nhẫn nại,…
Việc xây dựng văn hóa trong chính trị được quan tâm thực hiện. Đạo đức, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức được nâng lên. Tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, ý thức thượng tôn pháp luật được đề cao; từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, khắc phục tính hẹp hòi, đố kỵ, thụ động, cứng nhắc, thiếu hợp tác trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương trong hệ thống chính trị được đề cao. Các chuẩn mực đạo đức, nếp sống văn minh, đời sống văn hóa được các cơ quan, đơn vị và mỗi cán bộ, đảng viên quan thâm thực hiện.
Tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo được phát huy, nhất là thế hệ trẻ. Phong trào xây dựng “Cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa” được đẩy mạnh. Văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân từng bước phát triển; ý thức tôn trọng pháp luật, giữ gìn đạo đức kinh doanh, giữ chữ tín được nâng lên.
Công tác bảo tồn, phát huy giá trị của các di tích lịch sử, văn hoá được quan tâm thực hiện. Các thiết chế văn hóa được bố trí nguồn lực đầu tư, hoàn thiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu sinh hoạt văn hóa của nhân dân. Các hoạt động giao lưu văn hóa được tăng cường.
Tuy nhiên, việc phát triển văn hóa chưa đồng bộ với phát triển kinh tế. Các thiết chế văn hóa chưa được đầu tư, nhiều thiết chế văn hóa xuống cấp chậm được sửa chữa, nâng cấp; một số di tích lịch sử, văn hóa xuống cấp chưa được trùng tu; việc bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa hiệu quả chưa cao. Vấn đề tự chủ, xã hội hóa trong xây dựng, vận hành các thiết chế văn hóa, tổ chức các hoạt động, sự kiện văn hóa, dịch vụ văn hóa còn lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Hoạt động văn hóa, nghệ thuật chưa thực sự phát huy được vai trò bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người; tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật còn ít. Văn hóa ứng xử của một bộ phận người dân, nhất là thanh thiếu niên có những điều đáng lo ngại. Một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, sa vào chủ nghĩa cá nhân, có hành vi, lối sống thiếu chuẩn mực.
Việc thực hiện quy định về nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, sinh hoạt cộng đồng có nơi chưa nghiêm. Một số giá trị văn hóa của cư dân ven biển, hải đảo, của đồng bào các dân tộc thiểu số ở các huyện miền núi chưa được phát huy đúng mức. Tiếng nói, phong tục, tập quán trong một bộ phận không nhỏ đồng bào dân tộc thiểu số đang bị mai một. Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền chậm được rút ngắn…
II. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI QUẢNG NGÃI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HIỆN NAY
1. Quan điểm
- Nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi phải được đặt ngang hàng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững của tỉnh.
- Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi phải đặt trong sự thống nhất, phát triển đa dạng của cộng đồng dân cư Quảng Ngãi và các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dan tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
- Phát triển văn hóa nhằm hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa; bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp; bài trừ hủ tục, mê tín; lấy gia đình, cộng đồng dân cư, tổ chức trong xã hội làm nền tảng để xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi.
- Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân; nhân dân là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa; đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
2. Mục tiêu
- Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi toàn diện; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa để văn hóa, con người Quảng Ngãi thực sự là nền tảng tinh thần, là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển bền vững của tỉnh.
- Xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh trong mỗi gia đình, thôn, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị.
- Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp gắn với xây dựng con người Quảng Ngãi phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, hình thành các giá trị mới của con người Quảng Ngãi với các đặc tính cơ bản yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tự trọng, tự chủ, sống nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, có tri thức, sức khỏe, năng động, sáng tạo, có trách nhiệm công dân, tuân thủ pháp luật, có tinh thần hợp tác cao, khẳng khái, khoan dung, thân thiện, có ý thức bảo vệ môi trường; tiếp tục khắc phục những khiếm khuyết trong tính cách của một bộ phận dân cư như tính hẹp hòi, khắt khe, đố kỵ, cố chấp, thụ động, cứng nhắc, thiếu hợp tác, ý thức lao động thấp.
- Khơi dậy niềm tự hào, phát huy truyền thống anh hùng, sức mạnh đoàn kết và khát vọng phát triển Quảng Ngãi phồn vinh, thịnh vượng.
3. Một số nhiệm vụ chủ yếu
3.1. Xây dựng, phát triển toàn diện con người Quảng Ngãi về đức, trí, thể, mỹ đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững
- Xây dựng và hình thành phổ biến lối sống "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người"; khắc phục tính ích kỷ, hẹp hòi; khuyến khích tinh thần cống hiến, sáng tạo vì cộng đồng; đức tính tự trọng, tự chủ, có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội, đặc biệt trong thế hệ trẻ.
- Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, văn học, nghệ thuật, khoa học vào việc xây dựng con người Quảng Ngãi phát triển toàn diện đức, trí, thể, mỹ, khẳng khái, khoan dung, thân thiện, năng động, có lòng yêu nước, khát vọng cống hiến vì sự phát triển của quê hương, đất nước. Khơi dậy mạnh mẽ ý chí tự lực, tự cường, tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển trong mỗi người dân, nhất là thế hệ trẻ.
- Khẳng định, tôn vinh và bảo vệ cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; thường xuyên, kiên trì đấu tranh, phê phán đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực làm tha hóa con người, xuống cấp về đạo đức, lối sống, ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi.
- Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống và lịch sử dân tộc. Chú trọng giáo dục văn hóa ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong làm việc công nghiệp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
- Đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, từng thôn, tổ dân phố, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Đề cao vai trò, trách nhiệm và các giá trị văn hóa tốt đẹp của gia đình để gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng tâm hồn, tình yêu quê hương, Tổ quốc, đồng bào. Xây dựng môi trường giáo dục thực sự là nơi rèn luyện, phát triển toàn diện con người về lý tưởng, phẩm chất đạo đức, nhân cách, lối sống, là nơi khởi nguồn, phát huy tốt nhất tiềm năng sáng tạo của mỗi cá nhân.
- Xây dựng nếp sống văn hóa, đoàn kết, dân chủ, văn minh. Thực hiện tốt các cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", "Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh", phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Đồng thời, thường xuyên phê phán và ngăn chặn, đầy lùi các biểu hiện tiêu cực, lối sống vô cảm, các hủ tục, mê tín, dị đoan.
- Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng thiết thực, phù hợp với địa phương. Khuyến khích các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo, từ thiện, giúp đỡ những người yếu thế trong xã hội. Từng bước thu hẹp khoảng cách thu nhập, hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền.
3.3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế
- Coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước các cấp và cả hệ thống chính trị. Thực hiện các chuẩn mực đạo đức, văn hóa trong giao tiếp, ứng xử, văn hóa công sở. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất chính trị, đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; có ý thức thượng tôn pháp luật, dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Đề cao trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong thực hiện các chuẩn mực đạo đức, nếp sống văn minh, đời sống văn hóa gắn với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân. Đấu tranh đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, tính cố chấp, thụ động, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
- Quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế; lấy con người làm trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội; phát huy tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ, không ngừng sáng tạo, khát khao làm giàu, nhất là trong thế hệ trẻ. Phát triển kinh tế phải gắn chặt và tương thích với phát triển văn hóa.
- Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp luật, giữ chữ tín, cạnh tranh lành mạnh. Phát huy ý thức tự tôn dân tộc trong doanh nghiệp. Xây dựng đội ngũ doanh nhân giỏi, có đạo đức, có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội.
3.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa
- Bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hóa truyền thống; khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu văn hóa của tỉnh, đa dạng, phong phú văn hóa dân tộc. Giữ gìn, tôn tạo, phát huy có hiệu quả các di tích lịch sử, văn hóa, các loại hình nghệ thuật, lễ hội truyền thống đặc trưng, các giá trị tích cực của cư dân văn hóa ven biển, hải đảo, của đồng bào dân tộc thiểu số, của tôn giáo gắn với phát triển kinh tế, du lịch.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho văn nghệ sĩ chủ động tìm tòi, sáng tạo; phấn đấu có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao thấm nhuần tinh thần dân tộc, tiến bộ, nhân văn; hạn chế các biểu hiện lệch lạc, chạy theo thị hiếu tầm thường trong sáng tác nghệ thuật.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan báo chí và truyền thông trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi, nhất là trong định hướng tư tưởng, nhân cách, thẩm mỹ cho nhân dân.
3.5. Phát triển công nghiệp văn hóa và thị trường, dịch vụ, sản phẩm văn hóa
- Khai thác và phát huy tiềm năng, giá trị đặc sắc của văn hóa Quảng Ngãi. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Phát triển thị trường văn hóa nhằm quảng bá văn hóa Quảng Ngãi đến địa phương trong nước và khu vực trên thế giới.
- Đẩy mạnh hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa, con người Quảng Ngãi. Tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tiến bộ của nhân loại, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa.
4. Trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và cán bộ, đảng viên trong việc xây dựng văn hóa, con người Quảng Ngãi hiện nay
4.1. Các cấp ủy, tổ chức đảng tăng cường lãnh đạo công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và Kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU và Kết luận số 635-KL/TU của Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ năm, khóa XX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 19/10/2016 của Tỉnh ủy khóa XIX về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
4.2. Chính quyền các cấp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa.
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chính sách của tỉnh về phát triển văn hóa, con người phù hợp với điều kiện thực tế; quy chế quản lý, khai thác di tích lịch sử, văn hóa phục vụ du lịch. Khuyến khích các cộng đồng dân cư xây dựng hương ước, quy ước phù hợp với đặc điểm tình hình; các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị ban hành, thực hiện quy tắc ứng xử, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, công vụ. Tăng cường quản lý báo chí, xuất bản, các loại hình thông tin.
- Tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác văn hóa. Có cơ chế tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn học, nghệ thuật, thể dục, thể thao, khoa học, công nghệ có phẩm chất, bãn lĩnh chính trị vững vàng, có chuyên môn cao, năng động, sáng tạo, phù hợp và đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
- Bố trí nguồn lực nhà nước cho phát triển văn hóa, con người tương thích với mức tăng trưởng kinh tế của tỉnh, gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội. Huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ phát triển văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao; khuyến khích đầu tư bảo tồn, tôn tạo, nâng cấp các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, các lễ hội và các loại hình nghệ thuật. Xây dựng và phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch.
- Thường xuyên thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm trong lĩnh vực văn hóa. Ngăn chặn có hiệu quả sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi.
4.3. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội tập trung tuyên truyền, tổ chức thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp xây dựng và phát triển con người Quảng Ngãi. Mọi hoạt động từ tỉnh đến cơ sở cần hướng đến việc động viên cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân bảo vệ, tôn vinh cái đúng, các giá trị truyền thống tốt đẹp, giá trị mới hiện đại, phù hợp về văn hóa, con người của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
4.4. Cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, thường xuyên phê phán sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức, đẩy lùi lối sống biệt lập, vô cảm, hẹp hòi, đố kỵ, cố chấp, thụ động, không tuân thủ kỷ cương, phép nước trong một bộ phận dân cư, để xây dựng con người Quảng Ngãi với các đặc tính yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tự trọng, tự chủ, sống nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, có tri thức, sức khỏe, năng động, sáng tạo, có trách nhiệm công dân, tuân thủ pháp luật, khẳng khái, khoan dung, thân thiện, có ý thức bảo vệ môi trường và có tinh thần hợp tác cao.
***
Toàn Đảng bộ, quân và dân Quảng Ngãi đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người để đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững nhằm góp phần ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, phấn đấu đến năm 2025 Quảng Ngãi trở thành tỉnh phát triển khá của Vùng miền Trung, đến năm 2030 trở thành tỉnh phát triển khá, có thu nhập bình quân đầu người ít nhất bằng mức bình quân của cả nước.
Phần thứ tư
MỘT SỐ LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA, CON NGƯỜI MỚI[17]
1. Các đồng chí phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài, góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học, đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi.
(Bài nói tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội Phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt Nam, ngày 18-5-1963, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.97-98)
2. Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân.
(Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại Kỳ họp thứ II, Quốc Hội khóa I Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 18-12-1959, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.371).
3. Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, "cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động.
(Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 08-9-1962, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr.466).
4. Càng giàu có, càng cần làm đời sống mới. Nếu một mình no ấm, mà nỡ để đồng bào xung quanh đói rét, đến khi giặc cướp lung tung, thì dù giàu cũng không hưởng được.
(Đời sống mới, viết ngày 20-3-1947, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.114).
5. Cần xây dựng và phát triển thuần phong mỹ tục. Các đồng chí nước bạn sang ta nói nhân dân Việt Nam rất cần cù, giản dị. Thuần phong mỹ tục là đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau sản xuất, tiết kiệm, vì vậy nên cần phát triển thuần phong mỹ tục.
(Bài nói chuyện với các đại biểu nhân dân Thanh Hóa, ngày 13-6-1957, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.10, tr.603)
6. Cây bút phục vụ chính nghĩa trong tay nhà văn chiến đấu có một lực lượng cực kỳ mạnh mẽ.
(Thư gửi Hội nghị các nhà văn Á – Phi lần thứ hai, ngày 10-02-1962, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr.339)
7. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình. Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ,
(Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, tháng 3-1961, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr.66)
8. Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc.
(Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc, ngày 07 – 9 -1957, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11, tr.92)
9. Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh.
(Đời sống mới, viết ngày 20-3-1947, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.116).
10. Đối với xóm giềng, phải thân mật và sẵn lòng giúp đỡ. Đối với việc làng, việc nước phải hăng hái làm gương.
(Đời sống mới, viết ngày 20-3-1947, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.117).
11. Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống mới.
(Đời sống mới, viết ngày 20-3-1947, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.113).
12. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ.
(Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 03/9/1945, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.4, tr.7).
13. Muốn cải tạo phong tục tập quán được tốt, thì tuyên huấn phải làm, mà phải làm bền bỉ liên tục, làm dần dần, chứ không thể chủ quan nóng vội, muốn làm hết ngay một lúc.
(Bài nói tại Hội nghị tuyên giáo miền núi, ngày 31-8-1963, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.165).
14. Nói tóm lại, để phục vụ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức.
(Bài nói tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần chúng, ngày 11-2-1960, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14, tr.165)
15. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phải phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
(Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, ngày 11-2-1951, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.140).
16. Phải xây dựng một nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng. Phải nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân. Phải đề xướng đạo đức công dân tức là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, bảo vệ của công… Phải chống văn hóa nô lệ của đế quốc và phong kiến.
(Thường thức chính trị, Báo Cứu quốc, từ ngày 16-01 đến 23-9-1953, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.8, tr.265-266).
17. Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng.
(Bài nói chuyện tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III, ngày 01-12-1962, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13, tr.504)
18. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ.
(Đạo đức và cách mạng, tạp chí Học tập, số 12-1958, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11, tr.605)
19. Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh".
(Thư gửi họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, ngày 10-12-1951, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7, tr.246)
20. Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. Vì vậy, nội dung văn hóa phải có ý nghĩa giáo dục.
(Bài nói tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần chúng, ngày 12-2-1960, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.470)
----
MỤC LỤC
- Lời giới thiệu
- Phần thứ nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, con người và xây dựng nền văn hóa mới, con người mới
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và yêu cầu xây dựng nền văn hóa mới
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, tính chất, chức năng của nền văn hóa mới
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và yêu cầu xây dựng con người mới
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vai trò của con người
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới
- Phần thứ hai: Quan điểm của Đảng ta về xây dựng văn hóa, con người trong giai đoạn cách mạng hiện nay
I. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
II. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
- Phần thứ ba: Tỉnh Quảng Ngãi đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa, con người để đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững.
I. Thực trạng việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi trong những năm qua
II. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Quảng Ngãi trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững hiện nay
1. Quan điểm
2. Mục tiêu
3. Một số nhiệm vụ chủ yếu
4. Trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và cán bộ, đảng viên trong việc xây dựng văn hóa, con người Quảng Ngãi hiện nay.
Chịu trách nhiệm xuất bản
ĐẶNG NGỌC DŨNG
Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy
Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Biên tập
Nguyễn Văn Dũng
Võ Đình Trà
Biên soạn
Võ Đình Ngân
Trần Văn Quyết
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.431.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr.431.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.434.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.59.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.8, tr.282.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.250.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.8, tr.494.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.8.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.368
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 t.10, tr.646-647.
[11] Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.3, tr.3
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.104
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.110
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr. 295
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002p, t.6, tr. 281
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.310
[17] Một số lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích từ tập sách "Vang vọng lời nước non", Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, tập 8.